Diễn đàn hướng dẫn viên du lịch C5G1 và C5G2
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


Chào mừng các bạn đã đến với diễn đàn hướng dẫn viên du lịch của lớp C5G1 và C5G2 khoa quản trị lữ hành hướng dẫn trường CĐ Du lịch Hà Nội
 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Đây là địa chỉ forum mới của trường cao đẳng du lịch Hà Nội : www.cddl.tk

Triều Lý (1009-1225) - Phần 1

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
Tác giả Thông điệp
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 492
Age : 33
Đến từ : Hà Nội
Số điểm : 7613
Danh tiếng : 10
Registration date : 08/10/2008

Triều Lý (1009-1225) - Phần 1 Vide
Bài gửiTiêu đề: Triều Lý (1009-1225) - Phần 1 Triều Lý (1009-1225) - Phần 1 I_icon_minitime13th August 2009, 8:10 pm

* Định đô Thăng Long

Lý Công Uẩn người châu Cổ Pháp (huyện Tiên Sơn, Bắc Ninh), mẹ họ Phạm,thuở nhỏ theo học ở chùa Lục Tổ, làm con nuôi cho nhà sư Lý Khánh Văn; lớn lên chuyển qua nghề võ, sau giữ đến chức Điện tiền chỉ huy sứ. chỉ huy cấm quân ở kinh đô Hoa Lư, có uy tín trong triều đình.

Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi lập ra nhà Lý. Năm 1010, ông đặt niên hiệu Thuận Thiên. Quyết định quan trọng đầu tiên của ông là dời kinh đô từ vùng núi Hoa Lư chật hẹp về Thăng Long (tên gọi mới của thành Tống Bình - Đại La thời Bắc thuộc) ở vùng đồng bằng thoáng rộng, địa thế thuận lợi, giữ vị trí trung tâm chính trị - kinh tế. Nhân dịp này, nhà vua soạn Chiếu dời đô trong đó có đoạn viết :"[Thăng long] được cái thế rồng cuộn hổ ngồi... tiện hướng nhìn sông tựa núi. Địa thê rộng mà bằng, đất đai cao mà thoáng... Xem khắp đất Việt ta chỉ thấy nơi này là thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời."

Việc dời đô về Thăng Long của Lý Công Uẩn đã chứng tỏ mọt tầm nhìn chiến lược sâu rộng của ông trong việc xây dựng một sự nghiệp lâu dài, phản ánh thế đi lên của vương triều và đất nước (với biểu tượng Rồng bay).

Dưới thời Lý, kinh thành Thăng Long đã được xây dựng và phát triển trở thành một đô thị phồn thịnh và tiêu biểu của Đại Việt, gồm 2 khu vực chính trị quan liêu (đô) và kinh tế dân gian (thị).

Thành Thăng Long đời Lý có vòng lũy đất La Thành bao bọc, nương vào thế tự nhiên (hệ thống sông Tô Lịch). Thành mở ra 4 cửa : Tường Phù (Đông), Quảng Phúc (Tây), Đại Hưng (Nam) và Diệu Đức (Bắc), có hào bao quanh. Bên trong có hệ thống cung điện như các điện Càn Nguyên, Tập Hiền, Giảng Võ, Long Trì (có đặt lầu chuông ở thềm điện này, để xét xử các nỗi oan ức của dân), cùng các cung Thuý Hoa, Long Thuỵ... Một số hoàng tử có cung điện ở ngoài hoàng thành. Sát với hoàng thành về phía đông, là khu chợ phố dân gian, gồm 61 phường, quang cảnh nhộn nhịp ngày đêm, với hệ thống sông kênh (Nhị Hà - Tô Lịch) giao thương thuận tiện.

* Xây dụng bộ máy chính quyền quân chủ tập trung

Để khẳng định vương quyền và đề cao lòng tự tôn dân tộc (tinh thần Vô tốn Hoa hạ), các vua Lý đã tiến hành xay dựng một bộ máy chính quyền tập trung theo đúng như mô hình nhà Tống bên Trung Quốc. Tuy nhiên, đó mới chỉ là trên danh nghĩa, còn trên thực tế, chức năng của nó đơn giản hơn nhiều.

Trong triều, các vua Lý tự xưng là Thiên tử, lập các ngôi Hoàng hậu và Thái tử, phong tước cho các quý tộc, định hội thề Đồng Cổ hàng năm ở Kinh đô để bảo đảm lòng trung thành. Triều đình đặt hệ thống quan chức theo 9 phẩm, lúc đầu lựa chọn chủ yếu bằng hình thức nhiệm tử (con cháu được tập ấm) và tuyển cử (giới thiệu, bảo lãnh). Đứng đầu có các chức kinh hàm Tam thái và Tam thiếu (sư, phó, bảo). Chức Thái uý có vai trò như Tể tướng (Lý Thường Kiệt, Tô Hiến Thành đã giữ chức này), Thiếu uý coi Cấm binh. Giúp việc Tể tướng có các chức Hành khiển.

Ở cấp địa phương, nhà Lý chia nước thành 24 lộ - phủ, đặt các chức tri phủ, tri châu. Dưới phủ là huyện và hương. Khi đi xa, vua Lý thường chọn một hoàng tử, thân vương ở lại trấn giữ, trông nom kinh thành, gọi là Lưu thủ kinh sư.

Chính quyền nhà nước thời Lý là một chính quyền sùng Phật và thân dân. Nhiều nhà vua và quý tộc đã theo đạo Phật, đề cao tư tưởng từ bi, bác ái. Trong triều, có hệ thống tăng quan, một số được phong là Quốc sư. Vua quan có những mối quan hệ gần gũi với dân chúng, thường tiếp cận dân thường trong các dịp lễ hội. Khi khẩn thiết, người dân có mối oan ức có thể trực tiếp đến thềm điện Long Trì đánh chuông, xin được trực tiếp gặp vua. Lý Thánh Tông tuyên bố "yêu dân như yêu con", thường thi hành chính sách khoan dung khi xử kiện.

* Quân đội và luật pháp

Nhà Lý có nhiều loại quân. Ở kinh thành có Cấm quân (Thiên tử quân) bảo vệ Triều đình. Ở địa phương có lộ quân hay sương quân, lấy từ các hoàng nam (đinh nam ở làng xã từ 18 tuổi trở lên) ở các lộ phủ. Trong làng xã còn có dân binh, hương binh.

Quân đội nhà Lý có quân bộ và quân thủy, kỷ luật nghiêm minh, huấn luyện chu đáo. Khu Giảng Võ phía tây kinh thành Thăng Long là nơi giảng dạy luyện tập cho các tướng sĩ và binh lính. Từ thời Lý, đã thi hành chính sách "ngụ binh ư nông", cho quân sỹ luân phiên về cày ruộng theo tinh thần "tĩnh vi nông, động vi binh ". Chính sách đó vừa đảm bảo sản xuất, vừa đảm bảo động viên quân đội khi cần thiết.

Nhà Lý là vương triều Việt Nam đầu tiên ban hành luật thành văn. Năm 1042, Lý Thái Tông sai quan san định luật lệ, biên thành điều khoản, soạn ra Hình thư gồm 3 quyển (sau đó đã thất truyền), xuống chiếu ban hành trong dân gian. Qua các pháp lệnh, ta được biết pháp luật nhà Lý đã mang tính chất đẳng cấp phong kiến, bảo vệ hoàng cung, trừng trị nặng tội mưu phản, cho tầng lớp quý tộc được chuộc tội bằng tiền. Mặt khác, pháp luật đời Lý cũng bảo vệ trật tự xã hội. chống hà lạm thuế má, giải quyết các vấn đề tranh chấp, cầm chuộc, múa bán ruộng đất, đảm bảo sức kéo bằng cách trừng phạt nặng tội trộm trâu. giết trâu.

Ở các làng xã, hình thức luật tục (tập quán pháp) vẫn duy trì và được mọi người tuân theo.



* Xác lập chủ quyền quốc gia dân tộc

Có thể nói rằng đến thời Lý, Việt Nam đã là một quốc gia dân tộc, dựa trên một ý thức cộng đồng chung về nguồn gốc, dòng giống, lịch sử và văn hóa. Năm 1054, vua Lý Thánh Tông đặt quốc hiệu là Đại Việt - quốc hiệu này sẽ tồn tại mãi cho đến đầu thế kỷ XIX. Năm 1175, Nhà Tống chính thức công nhận chủ quyền quốc gia của Đại Việt khi đổi danh hiệu sắc phong từ Giao Chỉ quận vương thành An Nam quốc vương.

Quốc gia Đại Việt đã được bảo vệ củng cố qua cuộc kháng chiến chống Tống (1075 - 1077) và mở rộng lãnh thổ về phía nam qua cuộc chiến tranh với Champa (1069), sát nhập các châu Địa Lý, Ma Linh, BỐ Chính (vùng Quảng Bình và Bắc Quảng Trị ngày nay). Các vua Lý đã thực hiện chính sách kimi, đưa nhiều công chúa gả cho các thổ tù miền núi để vừa ràng buộc họ vừa tạo sự ủng hộ hậu thuẫn (sự ủng hộ của các tù trưởng dân tộc ít người đối với triều đình Lý đã thể hiện rõ rệt trong việc phối hợp chiến đấu chống lại quân Tống).

Ý thức quốc gia dân tộc ở mặt lãnh thổ - vương triều đã bộc lộ ra trong bài thơ Thần của Lý Thường Kiệt. Ý thức tìm về cội nguồn dân tộc cũng bước đầu biểu hiện qua các truyền thuyết lịch sử - văn hóa trong tác phẩm Việt điện y linh của Lý Tế Xuyên.
Về Đầu Trang Go down
https://c5g12.forumvi.com

Triều Lý (1009-1225) - Phần 1

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum: Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn đàn hướng dẫn viên du lịch C5G1 và C5G2 :: Học tập :: Lịch sử :: Thời kì lịch sử -

Copy đường link dưới đây gửi đến nick yahoo bạn bè!