Diễn đàn hướng dẫn viên du lịch C5G1 và C5G2
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.


Chào mừng các bạn đã đến với diễn đàn hướng dẫn viên du lịch của lớp C5G1 và C5G2 khoa quản trị lữ hành hướng dẫn trường CĐ Du lịch Hà Nội
 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập
Đây là địa chỉ forum mới của trường cao đẳng du lịch Hà Nội : www.cddl.tk

Triều Trần (1226-1400) - Phần 2

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Go down
Tác giả Thông điệp
Admin
Admin
Admin
Admin

Tổng số bài gửi : 492
Age : 33
Đến từ : Hà Nội
Số điểm : 7613
Danh tiếng : 10
Registration date : 08/10/2008

Triều Trần (1226-1400) - Phần 2 Vide
Bài gửiTiêu đề: Triều Trần (1226-1400) - Phần 2 Triều Trần (1226-1400) - Phần 2 I_icon_minitime13th August 2009, 8:14 pm

* Chính sách kinh tê của Nhà nước phong kiên thời Trần

Nhà nước thời Trần đã thi hành chính sách trọng nông, khuyến khích nông nghiệp. Cùng với chính sách "ngụ binh ư nông" kết hợp kinh tế với quốc phòng, Triều đình đã lập ra Ty Khuyến nông, đặt các chức quan Hà đê chánh phó sứ. Năm 1248, cho đắp đê dọc theo Nhị Hà từ đầu nguồn đến bờ biển, đoạn chảy qua kinh thành Thăng Long gọi là đê Đỉnh Nhĩ (Quai Vạc) Hàng năm, mọi người đều có nghĩa vụ lao động tu sửa đê, học sinh Quốc Tử Giám cũng không được miễn trừ. Các vua Trần cũng thường xuyên đi thăm việc đắp đê, sửa đê. Hành khiển Trần Khắc Chung thì cho rằng: "Khi dân bị nạn lụt, người làm vua phải cứu giúp tai họa khẩn cấp đó, sửa đức chính không gì lớn hơn việc ấy"

Để bảo đảm nguồn thu hoạch của Nhà nước, các nông dân làng xã đã phải chịu những nghĩa vụ tô thuế và lao dịch. Tô chủ yếu đánh vào ruộng công tính bằng thóc, theo diện tích 'ruộng đất, hàm ý cày ruộng của nhà vua. Thuế chủ yếu đánh vào ruộng tư, tính bằng tiền theo đầu người, hàm ý đó là nghĩa vụ của người có ruộng. Năm 1378, Nhà nước bắt đầu đánh thuế thân, đồng loạt thu mỗi hộ đinh nam 3 quan tiền.

Nhà Trần đã có những biện pháp khuyến khích thủ công nghiệp và thương nghiệp, chưa áp dụng chính sách ức thương ngặt nghèo như các triều Lê, Nguyễn sau này. Chợ có ở khắp nơi, họp đều kỳ. Kinh thành Thăng Long 61 phường buôn bán tấp nập, nhộn nhịp cả về ban đêm. Vân Đồn vẫn là địa điểm giao thương quốc tế, trao đổi hàng hóa giữa Đại Việt và các nước khác ở Đông Nam Á và Đông Á.

Là vương triều quân chủ quý tộc, nhà Trần đã phát triển bộ phận kinh tế quý tộc quan liêu, với chế độ thái ấp điền trang, sử dụng lao động của tầng lớp nông nô, nô tỳ.

Nhìn chung, dưới triều Trần, một thế cân bằng ổn định về kinh tế đã được duy trì giữa các yếu tố công hữu và tư hữu, giữa nông nghiệp và nền kinh tế hàng hóa, giữa quyền lực, lợi ích của Nhà nước, (quyền sở hữu ruộng đất Nhà nước, nguồn tô thuế) với các đẳng cấp quý tộc quan liêu (thái ấp điền trang) cũng như của khối bình dân làng xã (ruộng công).

* Thái ấp và điền trang

Thái ấp, điền trang đều là những ruộng đất của tầng lớp quý tộc quan liêu đời Trần, nhưng tính chất đặc điểm khác nhau.

Thái ấp (ấp thang mộc, đất tắm gội) là ruộng đất do Nhà vua ban cấp cho các quý tộc và triều thần có công. Quy mô một thái ấp tương đối nhỏ, khoảng 1 , 2 xã (trừ trường hợp thái ấp rất rộng lớn của Nguyễn Khoái ở lộ Khoái). Trên danh nghĩa, ruộng đất thái ấp thuộc quyền sở hữu của nhà nước, Triều đình có quyền lấy của người này ban cấp cho người khác. Quý tộc có quyền sử dụng và hưởng hoa lợi về đất đai và một phần về cư dân trên đó; như thu tô thuế, xây dựng phủ đệ, lập các đội quân vương hầu gia đồng (còn gọi là thang mộc binh).

Thời Trần, ta thấy có những thái ấp của Trần Liễu (Đông Triều, Quảng Ninh), Trần Thủ Độ ở Quắc Hương (Bình Lục, Hà Nam), Nguyễn Khoái (Hưng Yên), Trần Quang Khải (Bình Lục, Hà Nam), Trần Khát Chân ở Kẻ Mơ (Hai Bà Trưng, Hà Nội).

Trong chế độ quân chủ tập trung thời Trần, quyền chiếm dụng ruộng đất có điều kiện và hạn chế, mang tính thụ động của các quý tộc đối với các thái ấp không có khả năng làm phát triển các yếu tố cát cứ chống lại chính quyền trung ương như các thái ấp lãnh địa ở Tây âu thời trung đại. Có người nói đó là những "thái ấp giả".

Điền trang là những trang trại lớn của các quý tộc đời Trần, do quý tộc trực tiếp quản lý, sử dụng sức lao động của gia nô, nô tì; có quyền thừa kế. Đó là bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu lớn phong kiến, tư nhân.

Năm 1266, Triều đình xuống chiếu cho các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập dân phiêu tán không có sản nghiệp làm nô tì để khai khẩn ruộng hoang lập thành điền trang, sau đó lại cho phép các gia nô trong điền trang kết hôn với nhau, lập thành gia đình. Trong khoảng 1 thế kỷ, kinh tế điền trang quý tộc đã phát triển mạnh, chủ yếu ở các bãi bồi ven sông. Chế độ điền trang hàm chứa những yếu tố và xu thế cát cứ.

Các điền trang được nhắc nhiều đến là của Trần Khánh Dư (Chí Linh, Hải Dương), Trần Khắc Hãn (Từ Liêm, Hà Nội), Trần Quốc Khang (Diễn Châu, Nghệ An). Trước thế lực đó, Triều đình cũng đã tìm cách can thiệp, hạn chế như thi hành phép xắn chân bãi bồi, kiểm kê tài sản nhưng sau phải hủy bỏ. Chỉ đến cuối đời Trần, kinh tế điền trang mới lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Các nông nô, nô tì trong các điền trang đã nổi lên đấu tranh để trở thành các nông dân tự do. Điền trang có xu thế công xã hóa. Trước tình hình đó, năm 1397, Hồ Quý Ly đã thi hành phép hạn điền, hạn nô, đánh mạnh vào thế lực kinh tế của tầng lớp quý tộc Trần. Điền trang bị suy sụp từ đó.

* Kinh tế làng xã

Thời Trần, bên cạnh bộ phân kinh tế quý tộc - quan liêu, bộ phận kinh tế làng xã đã giữ một vai trò quan trọng. Đó là nền kinh tế của những người sản xuất nhỏ, kết hợp với buôn bán nhỏ trong làng xã. Ở đây, người nông dân kiêm thợ thủ công và thương nhân. Nhà nước ít can thiệp vào đời sống kinh tế tự trị của làng xã, từ các nghĩa vụ tô thuế và lao dịch. Ruộng công chiếm ưu thế, cùng tồn tại với ruộng tư, loại ruộng lúc này còn chiếm một tỷ lệ thấp nhưng có xu thế phát triển.

Những người cày ruộng công trong làng xã hằng năm phải nộp thóc tô, với ý nghĩa cày ruộng của nhà vua. Hằng năm, tô ruộng mỗi mẫu phải nộp 100 thăng thóc, mức tô mà các sách sử sau này đánh giá là "quá nặng" (Việt sử thông giám cương mục).

Trong làng xã, một bộ phận là chủ sở hữu ruộng tư, có lẽ đây là những đối tượng chủ yếu phải nộp thuế ruộng bằng tiền. Năm 1242, Nhà nước quy định "có 1-2 mẫu ruộng thì nộp liền 1 quan, có 3-4 mẫu thì nộp 2 quan, từ 5 mẫu trở lên thì hộp 3 quan ".

Đã có hiện tượng cầm cố, mua bán các loại ruộng của làng xã. Năm 1237, có quy định về việc viết chúc thư văn khế. Năm 1248, Nhà nước quy định việc đền bù ruộng tư của dân nếu bị đê lấn chiếm. Đặc biệt năm 1254, Triều đình cho phép bán ruộng công làng xã làm ruộng tư, mỗi diện (mẫu) 5 quan. Có các hình thức bán đợ (có thể chuộc lại trong một thời gian nhất định) và bán đứt (không thể chuộc lại vì đã quá thời hạn, hình thức này thường xảy ra trong những năm đói kém). Bên cạnh các nông dân tư hữu, tầng lớp địa chủ và tá điền bắt đầu xuất hiện trong làng xã.

Nền kinh tế hàng hoá làng xã cũng phát triển dưới thời Trần. Các ngành nghề thủ công nghiệp truyền thống như dệt, gốm, giấy, đúc đồng đã hoạt động trong làng xã cũng như ở ven kinh thành Thăng Long. Mạng lưới chợ họp đều kỳ ở các làng xã cũng như ở đô thị. Việc buôn bán mở rộng ra thị trường vùng, xuất hiện một số thương nhân giàu có. Những nhà giàu có ở Đình Bảng được mời vào đánh bạc với vua. Ngô Dẫn là một lái buôn ở Vân Đồn, vì có ngọc rết do cha để lại đã trở thành giàu có, được vua Minh Tông gả công chúa Nguyệt Sơn cho. .

* Kết cấu xã hội thời Trần

Xã hội Đại Việt thời Trần là một xã hội đã phân tầng đẳng cấp trên quy mô quốc gia với 2 đẳng cấp chính : vua quan và thứ dân (bách tính), dưới thứ dân là tầng lớp nô tỳ. Tuy nhiên, sự phân hóa xã hội chưa sâu sắc, giữa hai đẳng cấp này vẫn có những mối quan hệ gần gũi. Các cộng đồng làng xã còn tương đối thuần nhất, lúc này sự phân loại các hạng dân ở đây chủ yếu theo lứa tuổi (tiểu hoàng nam, đại hoàng nam, lão, long lão). Tục trọng lão, trọng xỉ (thiên tước) còn rất đậm trong làng xã.

Nhà vua đứng đầu Nhà nước' và là biểu tượng của quốc gia, trên danh nghĩa, có uy quyền tối thượng và toàn năng. Khi vua còn trẻ, quyền hành thực tế nằm trong tay Thái Thượng hoàng. Tuy nhiên, khoáng cách giữa danh và thực ở đây còn khá lớn. Các vua Trần tự coi là cha mẹ của dân, thi hành một chính sách thân dân kiểu gia trưởng, kết hợp với tư tưởng nhân từ bác ái của đạo Phật. Các vua Trần thường xuyên thăm hỏi việc đắp đê, gặt hái, trong các dịp hội hè đã xuống dự cùng dân chúng, xem đấu vật, đua thuyền hoặc đi chơi phố.

Quý tộc quan liêu là chỗ dựa của nhà vua và triều đình trong các cuộc kháng chiến chống Mông-nguyên cũng như trong công cuộc trị nước. Thời đầu Trần, chủ yếu tầng lớp quý tộc tông thất nắm đặc quyền trong những chức vụ cao cấp. Một số ít quan liêu không phải là tông thất đã gia nhập tầng lớp quý tộc bằng cách được ban quốc tính (lấy họ vua) hoặc được nhận làm nghĩa tử (con nuôi vua).

Dần dần, tầng lớp Nho sĩ quan liêu phi quý tộc càng có nhiều cơ hội tham chính trong bộ máy nhà nước triều Trần. Trường hợp điển hình thường được nhắc tới là Đoàn Như Hài, từ một thư sinh có công giúp vua Trần Anh Tông đã được thăng đến chức quan Hành khiển đầu triều. Nho sĩ đời Trần có nhiều người tài cao đức trọng, danh thực xứng hợp như các tấm gương sáng Mạc Đĩnh Chi, Chu Văn An.

Tăng ni, tăng quan, thời Trần đã giữ một vị trí quan trọng trong xã hội (như các sư Pháp Loa Huyền Quang). Nhà chùa có ruộng đất riêng và nô tì riêng. Thời cuối Trần, uy thế chính tả của các thiền tăng, đạo sĩ ngày càng giảm sút. Nho sĩ Trương Hán Siêu đã phê phán gay gắt giới tăng ni. Năm 1396, Nhà nước đã có lệnh thải bớt tăng đạo. Sư sãi đã lui về ẩn náu trong các chùa chiền làng xã.

Đẳng cấp thứ dân bao gồm chủ yếu bộ phận nông dân tự do - tự canh trong các làng xã, đa số cày ruộng công và một số ít có ruộng tư, có nghĩa vụ nộp tô thuế, lao dịch và binh dịch cho Nhà nước. Họ không giống như nông nô trong các lãnh địa Tây âu trung đại, mà là thần dân của nhà vua, triều đình, đó là những con người nửa tự do. Trong làng xã, có thể đã có một số ít tá điền.

Nô tì (nô : nam, tì : nữ) tuy không hẳn là một đẳng cấp riêng biệt, nhưng là một tầng lớp xã hội ở thời Trần khá đông đảo. Nô tì có nhiều nguồn gốc có thể là nông dân bị bần cùng hóa (năm 1290 đói kém, một người bán làm nô giá 1 quan tiền, tương đương 1 thăng (2 lít gạo), hoặc bị gán nợ (như Hà Ô Lôi, trong Lĩnh Nam chích quái), hoặc các phạm nhân mắc tội đồ, tù binh (Champa và Nguyên), người nước ngoài bị bắt cóc.

Có nhiều loại nô : quan nô (của Nhà nước) làm việc trong các đồn điền, trại lính, gia nô (của các nhà quyền quý) làm việc trong gia đình và điền trang, tam bảo nô phục vụ trong các chùa chiền. Nô tì có địa vị thấp kém nhất trong xã hội, nhưng một số sau đó đã trở thành những người tự do có địa vị trong xã hội. Tam bảo nô Nguyễn Chế sau trở nên giàu có, lấy con gái Trương Hán Siêu. Các tì tướng Yết Kiêu, Dã Tượng, Phạm Ngũ Lão cũng đều xuất thân từ gia nô, gia thần.

* Khủng hoảng cuối Trần

Nửa sau thế kỷ XIV xã hội Đại Việt đã lâm vào một cuộc khủng hoàng trầm trọng. Các điền trang ngày một phát triển, nhưng sản xuất lại trở nên trì trệ, đời sống các nông nô, nô tì trong đó bị bần cùng hoá. Mất mùa, đói kém liên tiếp xảy ra, nông dân nổi dậy bạo động, điển hình là cuộc khởi nghĩa của Ngô Bệ ở núi Yên Phụ (Hải Dương) năm 1344- 1360.

Triều đình nhà Trần ngày một sa đọa. Nhiều đại thần mắc tệ nạn tham nhũng, rượu chè cờ bạc, tham ăn, hiếu sắc, Nhà vua ( Trần Dụ Tông) cũng ăn chơi xa xỉ trụy lạc. Chu Văn An đã từng dâng sớ Thất trảm, xin chém 7 gian thần, nhưng bị từ chối. Dương Nhật Lễ (con người phường chèo, cháu Dụ Tông) nối ngôi Dụ Tông, gây sự biến, muốn đổi họ, bị các triều thần lật đổ, gây nên khủng hoảng cung đình.

Bên ngoài, Champa nhiều lần gây xung đột, chiến tranh với Đại Việt, đem quân vào đánh phá Thăng Long. Duệ Tông đi đánh Champa, lâm nạn tại thành Đồ Bàn. Chỉ đến khi Chế Bồng Nga tử trận (1390), chiến tranh mới tạm yên. Tiếp đó, nhà Minh ở phương Bắc lại gây sức ép, hạch sách, đòi cống nạp, mượn đường, đe doạ xâm lược, càng làm cuộc khủng hoảng thêm sâu sắc, đe doạ sự tồn tại của vương triều.

Nguồn: Tiến trình Lịch Sử Việt Nam – Nhà Xuất Bản Giáo Dục – Chủ biên PGS.TS Nguyễn Quang Ngọc. Tr 76 đến 84
Về Đầu Trang Go down
https://c5g12.forumvi.com

Triều Trần (1226-1400) - Phần 2

Xem chủ đề cũ hơn Xem chủ đề mới hơn Về Đầu Trang
Trang 1 trong tổng số 1 trang

Permissions in this forum: Bạn không có quyền trả lời bài viết
Diễn đàn hướng dẫn viên du lịch C5G1 và C5G2 :: Học tập :: Lịch sử :: Thời kì lịch sử -

Copy đường link dưới đây gửi đến nick yahoo bạn bè!